🔎 Những vấn đề liên quan
Bệnh ghẻ ( lở ) thân, mang cá
Còn được gọi bằng những tên khác như : Bệnh đốm trắng nước ngọt, Ích nước ngọt, Bệnh lở mình .Là một phổ biến bệnh của loài cá nước ngọt . Nguyên nhân là do các động vật nguyên sinh Ichthyopthirius. Ích là một trong những bệnh phổ biến nhất và dai dẳng .Các sinh vật đơn bào là một dạng ký sinh trùng . Nốt màu trắng trông giống như những hạt màu trắng của muối hoặc đường lên đến 1 mm xuất hiện trên cơ thể, vây và mang. Mỗi đốm trắng là một nang ký sinh trùng. Nó có thể dễ dàng xâm nhập vào một bể nuôi cá theo con đường từ cá mới hoặc thiết bị đó đã được chuyển từ một môi trường nhiễm bệnh. Một khi nó hiện diện trong hồ cá , rất khó để kiểm soát do chu kỳ sinh sản nhanh và phương thức tồn tại độc đáo của nó. Nếu không được kiểm soát cá trong hồ có thể bị tử vong khi nhiễm bệnh.
Tổn hại ban đầu trên da có thể quan sát bằng mắt thường . Cá bị nhiễm bệnh có đốm trắng nhỏ trên da và mang là chất nhày dư thừa do kích ứng. Điểm trắng gây ra tổn thương tế bào cơ thể khi xâm thực các mô của cá. Điều này có thể dẫn đến viêm loét hoại tử lớp da . Những vết thương có thể làm cá bỏ ăn hoạt động chậm chạp . Các mô mang của một cá bị nhiễm bệnh cũng có thể làm giảm hiệu quả hô hấp. Điều này có nghĩa là khó khăn hơn cho các cá để có được oxy từ nước, và trở nên ít chịu được mức oxy hoà tan thấp.
Tình trạng nặng dần gây cho cá sự đau đớn khó chụi , vết thương loét rộng dần ra , có thể xuất hiện thêm nhiều vết thương mới sau cùng cá bị nhiễm trùng mất sức đề kháng kiệt sức rồi tử vong .
Chu kỳ sinh trưởng của Ích gồm giai đoạn sống sau:
Giai đoạn đầu Ích ở dạng bào nang (giai đoạn bắt đầu của một sinh vật đơn bào) xâm nhập nốt tổn thương trong da hoặc mang biểu mô. Sau khi nó ăn trong da hoặc mang, các ky` sinh trùng nở ra và bước vào một giai đoạn phân chia ).
Sinh vật đơn bào ký sinh này tách ra thành 10 cá thể mới lần bằng cách phân chia nhân tế bào , Sự gia tăng về số lượng có được do phân chia nhanh chóng tấn công cơ thể cá .
Vòng đời này phụ thuộc nhiều vào nhiệt độ nước, và toàn bộ vòng đời có từ khoảng 7 ngày ở môi trường nhiệt độ 25 ° C .Đến 8 tuần ở môi trường nhiệt độ 6 ° C
Trong vòng đời có giai đoạn không hoạt động. Ích nằm trong chờ đợi cho một con cá bị suy yếu để rồi gây bệnh. Tuy nhiên, bất kỳ yếu tố làm giảm khả năng miễn dịch như thay đổi nhiệt độ nước và sự suy giảm thể chất trong những con cá bị nhiễm khuẩn ngoài da, thúc đẩy một đợt bùng phát Ích. Sự hiện diện của ammonia, nitrite và mức độ cao của nitrat trong nước không tự nó gây ra các trường hợp lâm sàng của Ích. Tuy nhiên, chất lượng nước kém sẽ làm suy giảm đề kháng của cơ thể cá, cho phép một ổ dịch lây lan nhanh chóng và gia tăng tỷ lệ tử vong trong cá bị nhiễm bệnh.
Chẩn đoán “Ích” được mô tả như sau :Có thể dễ dàng được xác nhận bằng soi da và mang cá. Nạo một ít tế bào “điểm trắng” từ một cá bị nhiễm bệnh, sau đó gắn kết chúng vào một kính hiển vi với một vài giọt nước và che lam kính. Ký sinh trùng trưởng thành là lớn, màu tối (do các lông mao dày bao phủ toàn bộ tế bào), và có một hạt nhân hình móng ngựa mà đôi khi có thể nhìn thấy dưới độ phóng đại 100 lần. Ký sinh trùng trưởng thành di chuyển chậm bằng cách nhào lộn và có thể dễ dàng nhận ra. Các con chưa trưởng thành nhân nhỏ, mờ, và di chuyển một cách nhanh chóng.
Hành vi điển hình của cá bị nhiễm lâm sàng bao gồm :
– Bỏ ăn (chán ăn, từ chối tất cả các thực phẩm
– Thở nhanh, thở gấp
– Trốn vào góc tối
– Nằm sát đáy hồ ít bơi lội
– Hay rùng mình
– Cọ xát vết trầy xước vào đồ vật có trong hồ
– Bơi lờ đờ nơi gần mặt nước
Một con cá mới bị nhiễm Ích sẽ không hiển thị bất cứ dấu hiệu. Biểu hiên lâm sàng không quan sát được bằng mắt thường cho đến khi vết thương do nó ăn trên cơ thể cá và phát triển đến một hoặc hai mm. Vết thương trên mang thường là không dễ dàng nhìn thấy. Một con cá bị nhiễm Ich có thể ban đầu chỉ có một vết thương duy nhất. Khi phát lộ nhìn được mắt thường vết thương là một vết lở màu trắng ăn sâu vào cơ thể cá , trong một thời gian sau đó vết thương to dần ra và có dấu hiệu hoại tử và cùng lúc nhiều đốm trắng nữa có thể xuất hiện . Sau đó cá rơi vào tình trạng kiệt sức và chết ,
Phương pháp điều trị :
Bệnh lở mình do nhiễm Ích từ lâu đã làm tổn thất cho người nuôi trồng thủy sản nói chung và người nuôi cá cá cảnh nói riêng . Trước đây có nhiều cách đề xuất chữa bệnh này song đều không có kết quả vì Ích không bị loại dưới tác dụng của kháng sinh và các loại thuốc sát trùng hiện có. Kể cả điều trị bằng các phương pháp sát trùng thủ công (Bắt cá ra ngoài làm vệ sinh và sức thuốc ). Năm 1997 một người bạn hàng từ Mỹ về nước tìm mối làm ăn đã tặng cho tôi ( Dương Bắc ) một cuốn sách cẩm nang về cá cảnh ,trong đó cũng đề cập rất cụ thể về loại bệnh này. Phương pháp đề xuất chữa bệnh này rất đơn giản chỉ cần dùng 5 -6 viên Metronidazone 250 mg cho 100 lít nước có bổ xung khoảng 10 gr muối Clorua natri ( muối ăn) Ngâm trong vòng 3- 5 ngày là khỏi .Có thể ngâm chung cho tất cả cá trong hồ đã nhiễm bệnh. Phương pháp này đã được tôi phổ biến tại Việt nam , kết quả rất nhiều người dã biết đến phương pháp điều trị này.
Cách phòng ngừa bệnh
Thường xuyên làm vệ sinh hồ bể , thay nước hồ giữ cho cá sạch sẽ khỏe mạnh . Tránh không để cá bị tổn thương ngoài da . Thông thường sau khi điều trị cá bệnh bằng kháng sinh nên chú ý quan sát để phát hiện dấu hiệu của bệnh Ích ,vì giai doạn này cá hay bị nhiễm bệnh nhất – Lý do : Cá yếu , mất sức đề kháng ,da vây bị tổn thương do nhiễm nấm và khuẩn trước đó .